“Kỳ tích” của nền kinh tế Nhật
Nhắc đến Nhật Bản, chúng ta đều nghĩ ngay đến những cụm từ như “ Nền kinh tế thứ 2 thế giới”, “Sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế”. Không phải ngẫu nhiên mà nền kinh tế Nhật Bản giai đoạn 1952-1973 lại được các nhà kinh tế học trên thế giới liệt kê vào diện Phát triển thần kỳ và tập trung khai thác những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển đó. Vậy, điều gì đã khiến một đất nước được coi là nghèo tài nguyên và đầy thiên tai như Nhật phát triển thần tốc và trở thành nền kinh tế thứ 2 của thế giới?
Mục lục
Tổng quan nền kinh tế Nhật giai đoạn 1952-1973
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, với vị thế là kẻ thua cuộc, Nhật Bản phải chịu những tổn hại nặng nề về cả mặt kinh tế, con người. Tuy nhiên, nhờ công cuộc cải cách do Bộ Tổng tư lệnh tối cao quân đội Đồng minh – GHQ cùng với sự nỗ lực phi thường của chính phủ và người dân Nhật Bản.
Tăng trưởng chung
Tổng sản phẩm quốc nội của Nhật trong thời kỳ phát triển thần tốc giai đoạn 1952-1958 tăng trung bình 6,9% mỗi năm. Đến năm 1959, tốc độ tăng trưởng đã lên 2 con số, vượt 10%. Tốc độ tăng trưởng GDP vẫn tiếp tục tăng và luôn trên 10% trong thập niên 1960.
Nhìn vào những con số trên, chúng ta sẽ không thể không trầm trồ ngưỡng mộ vì một đất nước hậu chiến tranh với số tài sản thiệt hại lớn lên đến 64,3 tỷ yên, lạm phát phi mã, nạn đói hoành hành… mà chỉ sau 10 năm đã có thể tăng trưởng thần tốc như vậy phải không?
So sánh với các nước Âu Mỹ, nếu năm 1950 GDP của Nhật chỉ bằng vài phần trăm so với Mỹ và thấp hơn so với các nước phương Tây (24 tỷ USD), thì tới năm 1960 đã vượt Canada, 1966 vượt Pháp, 1967 vượt Anh, 1968 vượt Tây Đức và rồi trở thành cường quốc kinh tế thứ 2 sau Mỹ. Đây có thể coi là “sự chuyển mình kinh dị” ( theo nhận xét của PGS.TS Nguyễn Tiến Lực).
Theo cơ cấu ngành
Nông nghiệp
Nông nghiệp Nhật phát triển theo hướng điện khí hóa, cơ giới hóa, thủy lợi hóa, hóa học hóa và gia tăng năng suất. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp nhằm cải thiện năng suất đã có hiệu quả đáng kể. Chính phủ còn đưa ra Chính sách khuyến khích sản xuất lúa gạo, vì vậy mà sản lượng lúa ở Nhật thời kỳ đó luôn cao và ổn định. Có thể kể đến giai đoạn 1967-1969, sản lượng lúa đạt 14 triệu tấn/ năm. Ngành chăn nuôi cũng rất phát triển và nhanh hơn cả ngành trồng trọt do yếu tố địa hình và thời tiết. Cụ thể, chăn nuôi bò thịt và bò sữa đã rất phát triển ở vùng Hokkaido và Kagoshima. Nghề đánh bắt và nuôi cá cũng phát triển vào bậc nhất thế giới.
Công nghiệp
Thời kỳ này, ngành công nghiệp chế tạo ở Nhật phát triển vượt bậc, đặc biệt trong ngành chế tạo ô tô và đóng tàu biển.Năng lực sản xuất ô tô của Nhật tăng gấp 100 lần so với trước chiến tranh, và đã đạt vị trí thứ 2 (sau Mỹ) vào năm 1967. Ngành đóng tàu biển thì Nhật Bản vẫn liên tục dẫn đầu trên thế giới. Về ngành sản xuất máy móc và thiết bị điện tử, từ năm 1967, Nhật đã chiếm vị trí thứ 2 thế giới với giá trị sản lượng gần bằng ¼ của Mỹ. Ngành công nghiệp chế tạo tăng 118% vào thập niên 50-60.
Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm từ 1950-1960 của ngành công nghiệp Nhật Bản là 15,9%, gấp 6 lần Mỹ, gấp 5 lần Anh và gần gấp đôi Đức. Một con số đáng kinh ngạc thể hiện sự phát triển tuyệt vời của nền công nghiệp xứ Mặt trời mọc.
Ý kiến